LINKDOWNLOAD: http://www.mediafire.com/?47gkj5k5ea3h0q1#1
Jun Miyake feat. Lisa Papineau – tHe heRe aNd afTer [Stolen from strangers (2007)]: những ai từng hâm mộ cặp đôi Damien Rice và Lisa Hannigan phải ngỡ ngàng vì sự tương đồng đáng ngạc nhiên trong giọng hát của Papineau và Hannigan. Bỏ qua chi tiết nhỏ nhặt này, tHe heRe aNd afTer là thuộc dạng ca khúc đủ dễ nghe nhưng đủ thú vị khiến sau khi nghe, ta thòm thèm và phải lùng sục để nghe toàn bộ album. Phần phối khí nhiều tầng lớp, phần khí cụ jazzy ngẫu hứng cùng với giai điệu đẹp đẽ đầy bất an và giọng hát trôi dài trên nền nhạc tạo cảm giác như những mảng ký ức bị thời gian lôi tuột về phía sau.
Nói qua một chút về album. 15 năm đây đó rất nhiều nơi trên thế giới được Jun Miyake và những cộng sự của ông đưa vào khéo léo trong từng nhịp điệu: cái lắc lư trong bossa nova và tropalica đến từ Nam Mỹ cùng giọng hát của Arto Lindsay (làm bạn nhớ ngay đến vocal mượt như nhung của hai nghệ sĩ Brazil lão làng Caetano Veloso và Gilberto Gil), đâu đó một chút eleganza italiana từ Ý và ngọn gió của âm nhạc vùng balkan, sự duyên dáng của Pháp và những cú chạm nhẹ của tâm hồn Nhật vào từng track. Đa dạng là thế nhưng không hề rời rạc. Rất ưng ý một nhận xét đọc được trên mạng: “Stolen from strangers“ giống như một người bạn ghé qua nhà vào bữa trà chiều nhưng lại kết thúc bằng việc nấu nướng một bữa tối thịnh soạn.
Jamie XX – Far Nearer [Far Nearer / Beat For 12“ (2011)]: nếu có điều gì đáng than phiền về Jamie thì là thay vì tung ra các dự án, thu âm nhỏ lẻ, các fan của anh đang rất mong chờ một album solo 100% Jamie XX hoặc ít nhất một chút hy vọng gì đó vào album kế tiếp của The XX. Far Nearer, nếu vào một ngày đẹp trời, có thể khiến bạn nhấn hỏng nút replay trên player của bạn. Tiếng trống giòn giã, thời trang, phần vocal loop „I feel better when I have you near me“ được sử dụng khắp bài hát không khiến Far Nearer bị thường đi mà tạo một không khí rất laid-back và tích cực. Cảm giác nhịp điệu bài hát cộng hưởng với tần số tâm trạng tốt rất khó tả. Far Nearer như một chút ánh sáng hiếm hoi đối lập với track còn lại trong đĩa - „Beat For“ - và xu hướng tối tăm gần đây trong dòng dubstep đến từ Anh.
Wild Beasts - Reach A Bit Further [Smother (2011)]: âm nhạc trong Smother cũng như tựa đề của nó - „cháy âm ỉ“. Thay vì kiến tạo mạch cảm xúc dạt dào và phun trào, bốn anh chàng trong Wild Beasts phủ lên album một cảm giác rất sensual và intimate. Reach A Bit Further là một bản tình ca đẹp đẽ, buồn bã về những nuối tiếc và đổi thay trong tình yêu. Sự tung hứng trong giọng hát giữa tay trưởng nhóm Hayden Thorpe và tay bass Tom Fleming đủ để thấy sự đối lập – sự uyển chuyển và tha thiết của Thorpe và chân thành của Tom – nhưng không khiến phần giai điệu như một cuộc đối đáp của hai tay đàn ông chán đời, mà ngược lại hòa hợp thành một đoạn độc thoại đầy dằn vặt. Với 2 giọng hát và giai điệu đẹp, phần trống và guitar không cần phải biến hóa quá nhiều để khiến bài hát thành công.
Sun Airway – Wild Palms (2011): lần đầu tiên nghe Wild Palms cảm giác giống như được ngắm những khung hình đầy ánh sáng của mùa hè. Sự mơ màng trong giọng hát, dàn nhạc cụ dây và phần synth đầy đặn như một đám mây rực rỡ khiến ta phải nắm mắt lại và để cái ấm áp của bài hát phủ lên toàn bộ thính giác. Một track dày dặn đáng ngạc nhiên mà không cần phải tỏ ra quá gắng sức.
Hooray for Earth – Realize It's Not The Rain [True Loves (2011)]: được đặt cạnh Wild Palms một cách chủ đích, Realize It's Not The Sun của nhóm indie pop mới nổi Hooray For Earth tựa như cơn mưa rào mùa hạ đối lập với cái nắng chói chang của Sun Airway. Cả một bài hát chỉ có một phần verse, kết thúc lửng lơ, được dùng làm track mở đầu cho cả album như 1 khúc prelude với một nỗi buồn thoáng qua khi cơn mùa đầu mùa vừa trút lên mái nhà.
WU LYF – Dirt [Go Tell Fire To The Mountain (2011)]: nghe tên đã có thể phần nào hình dung ra phong cách của nhóm (WU LYF là cụm từ viết tắt của World United! Lucifer Youth Foundation). Xem chừng rất có vẻ hô hào và khẩu hiệu, nhất là khi nghe Dirt rất dễ liên tưởng đến 1 đám đông trẻ tuổi nổi loạn đang gào thét trên đường phố một thành phố lớn. Cái sướng khoái cách mạng, náo nhiệt trẻ trung như vậy trong âm nhạc đã lâu lắm rồi mới được nghe. Trống giục giã, tiếng organ đưa vào tăng độ căng cho bài hát và phần guitar đầy các cú hook bắt tai. Giọng hát đục, lệch và thiếu trọng tâm lại phù hợp một cách lạ kỳ. Là một trong những nhóm nhạc đầy hứa hẹn của năm, nhưng đáng tiếc thay rất ít thông tin về nhóm được tiết lộ.
The Weeknd – What You Need [House Of Balloons (2011)]: sau khi bị bạn Syka nhấc lên đặt xuống và cuối cùng bỏ rơi, mình quyết định cứu vớt anh chàng này. Điểm trừ lớn nhất của The Weeknd với hai bạn là giọng hát theo chuẩn MTV của anh chàng, mặc dù khi được sử dụng với liều lượng chừng mực như What You Need lại hấp dẫn lạ. Bỏ qua giọng hát, phần production quá tốt làm bài hát và cả album như ly champagne thượng hạng và một chiế sofa êm ái vào tối thứ bảy. Sự mới lạ của The Weeknd khi so với loại R&B thời trang thường thấy của Chris Brown, Bruno Mars etc... rất đáng để nghe qua một lần.
Beirut – East Harlem (2011): Trở lại sau 5 năm vắng bóng với một ca khúc mới mà cũ, được viết khi tay trưởng nhóm Zach Condon tròn 17 tuổi, bài hát ngập tràn cảm giác sảng khoái của một ly cà phê buổi sáng, đầy đủ sữa, đường nhưng không bị quá tay. Trống, kèn, piano, accordion, guitar, giọng hát, tất cả đều đầy đặn, không lấn át nhau. Beirut là một ví dụ điển hình cho những ban nhạc với phong cách đã được định hình vững chắc, không cần phải làm mới quá nhiều vẫn có thể giữ được một lượng fan trung thành đáng kể.

Ford & Lopatin – Emergency room (Channel Pressure, 2011) Sau khi đổi tên nhóm từ Games thành Ford & Lopatin, album Channel Pressure đã làm một cuộc cánh mạng đánh dấu sự thành công vượt trội của band. Emergency room có thể làm chúng ta liên tưởng đến Gary Numan trong Cars, hay các bản Soundtrack của các phim music thập niên 90s, nhưng với hiệu ứng âm thanh lạ xen lẫn cũng như các đoạn guitar solo cứng đâm thẳng vào nhịp điệu đã tạo nên thứ âm nhạc mới lạ.
Grimes - Fragment of the future (2011) Grimes, aka Claire Boucher, đã tự nhận âm nhạc của cô chịu ảnh hưởng nhiều bởi R & B, công nghiệp, gothic, hiphop và cả phương Tây thời trung cổ và các band nhạc / ca sĩ Salem, Mariah Carey, Gang Gang Dance và the Smiths (có vẻ không liên quan gì đến nhau nhỉ). Nhưng trong thực tế, nhạc của cô hoàn toàn không có chút gì giống với những gì cô nói trên. Nhạc của cô chỉ có thể dán nhãn là weird pop – pop kì lạ, nó nhẹ nhàng phù du dễ quên cũng như dễ bị ám ảnh. Fragments of the Future là một công trình tuyệt đẹp của piano, synth và giọng hát nhẹ nhàng, bài hát khá đơn giản, thậm chí có thể gọi là tối giản, nhưng bạn hãy cẩn thận, trong cái tối giản đó là cả một sự mê hoặc.
My morning jacket – Circuital (Circuital, 2011) Band nhạc 5 thành viên My Morning Jacket đến từ Kentucky, Mỹ vừa cho ra mắt album Circuital vào tháng 5 vừa qua vẫn với phong cách indie–folk mộc mạc quen thuộc nhưng được hòa trộn với nhiều màu sắc âm nhạc hơn, album được mô tả là “sử thi một cách chập chạm slow-jam” trong bản tin của Progress Report. Bài hát cũng là tựa đề album dài 7 phút này mở đầu là tiếng guitar nhẹ nhàng, nhịp điệu càng lúc càng nhanh dần một cách vững chắc với giọng hát đầm ấm của Carl là chất keo kết dính.
Foster the people – Pumped up kicks (2011) Nếu như bài hát Drunk Girls của LCD Soundsystem là indie song of summer 2010, 2007 thì là D.A.N.C.E của Justice, 2006 là Crazy của Gnarls Barkley (ôi, nhớ thời lớp 12 của mình mê tít bài nì nè) thì dường như 2011 có thể thuộc về Pumped up kicks của một band ít người biết có cái tên cũng kì lạ Poster the people. Một chút chillwave trên guitar, một chút giọng hát mỏng nhẹ như thu âm từ một chiếc máy liên lạc cũ, một chút hút sáo nhẹ, tất cả hòa quyện lại như làn gió mát, như ly cà phê đá, như sân thượng sau cơn mưa, và đó là chính là mùa hè trong thành phố. Chỉ cần 3 tháng sau khi release bài hát đã tràn ngập cái trang web âm nhạc, ipod của mọi người, và thậm chí xuất hiện trong một tập phim của Gossip Girl.. Chúc mừng 4 chàng trai chưa và sắp nổi tiếng này, dường như họ sắp trở thành một MGMT hoặc Peter, Bjorn and John tiếp theo.
Cults – Abducted (Cults, 2011) Cults là một band nhạc nóng hổi vừa thổi vừa nghe mới ra lò, bạn Ka biết đến band nhạc này thông qua sự rảnh rỗi ngồi xem các music videos hay ho (hóa ra rãnh rỗi cũng có ích của nó nhỉ). Thoạt đầu Abducted có vẻ như là một ca khúc indie pop bình thường nhưng quả thật là nó rất rất tuyệt vời. Cùng với giọng ca trong sáng của Madeline Follin, tiếu tấu nhanh, bài hát là sức sống mãnh liệt về một tình yêu mù quáng của cô gái tuổi đôi mươi, dù biết trước là sẽ đau đến “xé đôi quả tim” nhưng vẫn nhắm mắt bước đến.
Washed out – Eyes be closed (Within and Without, 2011) Sau một vài EP và singles, Washed Out đã phát hành album đầu tay của mình, Within and Without, trên nhãn mang tính biểu tượng Sub-Pop. Với tiêu đề "Eyes be Closed", single duy nhất là chính xác những gì chúng ta đã mong đợi. Bài hát chính nó là một phần nỗi nhớ lung linh của những năm 80. Vay từ New Wave, lo-fi và các phong trào shoegaze, Washed Out đã tạo ra một ca khúc của hạnh phúc không giả mạo. Lúc nào nghe nhạc của Washed out, bạn Ka luôn nghĩ về biển, về những ngọn sóng dập dìu bồng bềnh, và bản thân đang làm gì ư? Chẳng có gì khác ngoài việc thả cơ thể cho sóng cuốn đi mà chẳng hề nghĩ ngợi sẽ đi về nơi nào.
The knife – Marble house (Silent shout, 2006) Marble House là đĩa đơn thứ hai của album Silent shout của nhóm nhạc The knife, với 2 thành viên là anh chị em ruột mà cô em chính là Fever Ray vô cùng nổi tiếng của năm 2009. Tháng 6 này bạn Ka hay nghe lại album này nên chỉ muốn share lại bài hát Marble House, cũng được bình chọn là bài hát của năm của SAMA. Bộ đôi kì dị trong âm nhạc này đã tạo nên một dấu ấn không lẫn vào đâu được của mình. Và Marble House là một minh chứng rõ nét nhất, với nét độc đáo trong giai điệu, giọng hát ảm đạm và khô rốc của Karin và Olof. Rõ ràng mỗi loại hình nghệ thuật đều có một ngôn ngữ riêng của nó, nhưng Marble House lại làm cho bạn Ka lại cảm nhận được chất điện ảnh trong nó, rõ kì lạ.
Justice – Civilization (untitled, 2011) Justice luôn nổi tiếng vì thứ âm nhạc sôi động và những bản music videos độc đáo mang tính nghệ thuật cao. Và Civilization là đĩa đơn mới nhất của 2 anh chàng người Pháp này cho album vẫn chưa đặt tên sắp tới của họ. Giọng ca trong bài là của ca sĩ người Anh, Ali Love, bài hát cũng được sử dụng cho quảng cáo dài 2 phút của Adidas. Với tiết tấu mạnh mẽ đầy quen thuộc của nhóm, bài hát thật sự có sức khoấy động của một mùa hè ảm đạm. Có người ví von một cách hài hước bài hát này là cuộc hành quân của đội quân La Mã với vũ khí laze hiện đại.
Playlist các tháng trước: http://www.mediafire.com/?6q8c18ic8ahxg
Labels: mixtape, music